• THA LA XÓM ĐẠO

    NguyenDu Nguyễn (nguyên GĐ Đài PT&TH Huế, nhà báo, nhà văn chuyên viết về Huế)

    Mỗi dịp Noel giữa mùa đông hay mùa hoa gạo đầu hè tôi lại nhớ đến số phận của bài thơ “Tha La xóm đạo”, số phận của nhà thơ Vũ Anh Khanh.

    “Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng/Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá/Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ/Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ…”.

    Thời nhà Nguyễn cấm đạo thập niên 30, thế kỷ XIX, một nhóm người Công giáo ở kinh đô Huế do ông Côximô Nguyễn Hữu Trí dẫn đầu đã di cư vào Nam, đến một vùng hẻo lánh ở Trảng Bàng (Tây Ninh) khai khẩn đất hoang, giữ đạo, xây dựng nhà thờ. Tha La là tên riêng Việt hóa một từ Khmer có nghĩa như một trạm nghỉ chân.

    Bài thơ “Tha La xóm đạo” của Vũ Anh Khanh viết về cảm xúc của một viễn khách đến Tha La trong thời chiến tranh chống Pháp, làng quê chịu bao khói lửa tang thương, xóm thôn vắng vẻ, nỗi buồn xót xa, hiu quạnh. Người tu hành hay con chiên ngoan đạo ở Tha La đều lên đường cầm súng chống giặc ngoại xâm:

    “Tha La nguyện hy sinh/Ơ.. ơ.. hơ.. có một đám chiên lành/Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy/Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy/Lạy Đức Thánh Cha!/Lạy Đức Thánh Mẹ!/Lạy Đức Thánh Thần!/Chúng con xin về cõi tục để làm dân…/Rồi… cởi trả áo tu./Rồi… xếp kinh cầu nguyện/Rồi… nhẹ bước trở về trần…”.

    Có thể nói đây là một bài thơ yêu nước hay và hiếm bởi nói về giáo dân nơi xóm đạo lên đường kháng chiến.

    Bài thơ “Tha La xóm đạo” càng nổi tiếng khi được các nhạc sĩ Dzũng Chinh và Sơn Thảo phổ nhạc, soạn giả Viễn Châu cũng đã phỏng theo ý của bài thơ để viết ca khúc tân cổ giao duyên “Tha La xóm đạo”, các nghệ sĩ cải lương Chí Tâm và Lệ Thủy hát rất được mọi người yêu thích.

    Tuy vậy, bài thơ không được cả hai miền Nam, Bắc nhắc đến trong các dòng văn học vì “vấn đề chính trị” của tác giả Vũ Anh Khanh, một người viết văn nổi tiếng ở Sài Gòn những năm 50 thế kỷ trước. Với miền Nam, ông là người theo kháng chiến, là Việt Minh, thậm chí là Việt Cộng, tập kết ra Bắc năm 1954. Với miền Bắc, ông là người phản bội bởi sau khi tập kết ra Bắc ông lại tìm đường trở về miền Nam và bị bắn chết ngay trên sông Bến Hải năm 1956.

    Chiến tranh là vậy, tôi nhớ đến ca khúc “Lá thư trần thế” của Hòai Linh:

    “Lạy Chúa con là thiếu phụ miền quê/Chồng con vì nước nên đã ra đi/Hai ba năm chưa thỏa chí/Hết Thu qua Xuân sang Hè/Con đợi tàn Đông mới tin về…”.

    Nhân Noel, tôi muốn làm viễn khách về thăm xóm đạo, lần bước theo lời thơ “Tha la xóm đạo”: “Không là duyên, không là bèo kiếp trước/Không có ai chờ, ai đón tôi đâu!/Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu/Tìm hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ/Nhìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió/Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng/Nghìn cánh hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng…”

    Nhà thờ Đức Mẹ Hằng cứu giúp-dòng chúa Cứu Thế, Huế
    Hoa Gạo ở Đài PT&TH Huế, đường Hùng Vương

    FB Nguyendu Nguyen

    P/S:

    Lời bình: Bài rất tuyệt. Có chi tiết check xem có phải tác giả Vũ Anh Khanh bị bắn năm 1956 ? Vì theo HIệp định 1954 hai miền được qua về 2 năm chờ Tổng tuyển cử! (Thu Pham Huu)

    Nguyendu Nguyen: Dạ bị bắn bằng súng tẩm thuốc độc thay bằng đạn vì sợ bị vi phạm lệnh đình chiến! Năm 1956 hai miền đã căng rồi anh, cán bộ nhà nước đi nghỉ phép ở Vĩnh Phúc, sửa lại Vĩnh Linh, chắc không ai cho vô Nam!

    ***

    Tha La

    Vũ Anh Khanh

    Đây Tha La xóm đạo
    Có trái ngọt cây lành
    Tôi về thăm một dạo
    Giữa mùa nắng vàng hanh.
    Ngậm ngùi Tha La bảo:
    – Đây rừng xanh rừng xanh
    Bụi đùn quanh ngõ vắng,
    Khói đùn quanh nóc tranh.
    Gió đùn quanh mây trắng,
    Và lửa loạn xây thành.

    – Viễn khách ơi!
    Hãy dừng chân cho hỏi,
    Nắng hạ vàng ngàn hoa gạo rưng rưng.

    Đây Tha La, một xóm đạo ven rừng,
    Có trái ngọt, cây lành, im bóng lá,
    Con đường đỏ bụi phủ mờ gót lạ.
    Ngày êm êm lòng viễn khách bơ vơ!
    Về chi đây? Khách hỡi? Có ai chờ?
    Ai đưa đón?
    – Xin thưa, tôi lạc bước!

    Không là duyên, không là bèo kiếp trước,
    Không có ai chờ, ai đón tôi đâu!
    Rồi quạnh hiu, khách lặng lẽ cúi đầu,
    Tìm hoa rụng lạc loài bên vệ cỏ,
    Nhìn cánh hoa bay ngẩn ngơ trong gió,
    Gạo rưng rưng, nghìn hoa máu rưng rưng.
    Nghìn cánh hoa rơi, lòng khách bỗng bâng khuâng.
    Tha La hỏi:
    – Khách buồn nơi đây vắng?
    Không, tôi buồn vì mây trời đây trắng!

    – Và khách buồn vì tiếng gió đang hờn?
    Khách nhẹ cười, nghe gió nổi từng cơn,
    Gió vi vút, gió rợn rùng, gió rít.
    Bỗng đâu đây vẳng véo von tiếng địch:
    Thôi hết rồi còn chi nữa Tha La!
    Bao người đi thề chẳng trở lại nhà.
    Nay đã chết giữa chiến trường ly loạn!
    Tiếng địch càng cao, não nùng ai oán,
    Buồn trưa trưa, lây lất buồn trưa trưa,
    Buồn xưa xưa, ngây ngất buồn xưa xưa,
    Lòng viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh.
    Khách rùng mình, ngẩn ngơ lòng hiu quạnh.
    – Thôi hết rồi! Còn chi nữa Tha La!
    Đây mênh mông xóm đạo với rừng già.
    Nắng lổ đổ rụng trên đầu viễn khách.
    Khách bước nhẹ theo con đường đỏ quạch,
    Gặp cụ già đang ngóng gió bâng khuâng.
    – Kính thưa cụ, vì sao Tha La vắng?
    Cụ ngạo nghễ cười rung rung râu trắng,
    Nhẹ bảo chàng:
    “Em chẳng biết gì ư?
    Bao năm qua khói loạn phủ mịt mù!

    Người nước Việt ra đi vì nước Việt.
    Tha La vắng vì Tha La đã biết,
    Thương giống nòi đau đất nước lầm than.”

               *

    Trời xa xanh, mây trắng ngoẹn ngàn hàng,
    Ngày hiu quạnh. Ờ.. ơ.. hơ tiếng hát.
    Buồn như gió lướt lạnh dài đôi khúc nhạc
    Tiếng hát rằng:
    Tha La giận mùa thu,
    Tha La hận quốc thù,
    Tha La hờn quốc biến,
    Tha La buồn tiếng kiếm,
    Não nùng chưa!
    Tha La nguyện hy sinh.
    Ơ.. ơ.. hơ.. có một đám chiên lành.
    Quỳ cạnh Chúa một chiều xưa lửa dậy.
    Quỳ cạnh Chúa, đám chiên lành run rẩy:
    Lạy Đức Thánh Cha!
    Lạy Đức Thánh Mẹ!
    Lạy Đức Thánh Thần!
    Chúng con xin về cõi tục để làm dân…

    Rồi… cởi trả áo tu.
    Rồi… xếp kinh cầu nguyện.
    Rồi… nhẹ bước trở về trần…
    Viễn khách ơi! Viễn khách ơi!
    Người hãy dừng chân.
    Nghe Tha La kể, nhưng mà thôi khách nhé!
    Đất đã chuyển rung lòng bao thế hệ.
    Trời Tha La vần vũ đám mây tan.
    Vui gì đâu mà tâm sự?
    Buồn làm chi mà bẽ bàng?
    Ơ… ơ… hơ… ờ… ơ… hơ… tiếng hát
    Rung lành lạnh ngâm trầm đôi khúc nhạc.
    Buồn tênh tênh, não lòng lắm khách ơi!
    Tha La thương người viễn khách đi thôi!

               *

    Khách ngoảnh mặt nghẹn ngào trông nắng đổ,
    Nghe gió thổi như trùng dương sóng vỗ
    Lá rừng cao, vàng rụng lá rừng bay…
    Giờ khách đi. Tha La nhắn câu này:
    – Khi hết giặc, khách hãy về thăm nhé!
    Hãy về thăm xóm đạo
    Có trái ngọt cây lành.
    Tha La dâng ngàn hoa gạo,
    Và suối mát rừng xanh.
    Xem đám chiên lành thương áo trắng.
    Nghe mùa đổi gió nhớ quanh quanh
    .


    Tha La xuất phát từ “Schla” trong tiếng Khmer, có nghĩa là trạm, nơi nghỉ. Địa danh này nay thuộc xã An Hoà, Trảng Bàng, Tây Ninh. Trong kháng chiến chống Pháp, thanh niên nam nữ Tha La nhiệt tình tham gia, ra đi không hẹn ngày trở về và nhiều người đã hy sinh trên các chiến trường khiến Tha La vắng bóng người, buồn cô quạnh.

    Vũ Anh Khanh viết bài thơ này vào mùa xuân năm 1949 khi về Tây Ninh ăn Tết cùng Thẩm Thệ Hà. Bài thơ được in trong tuyển tập Thơ mùa giải phóng do Sống Chung xuất bản năm 1950, với tên Tha La. Trước đó, năm 1949, tác giả có in trích đoạn của bài thơ này với tên Hận Tha La trong tiểu thuyết Nửa bồ xuơng khô của ông. Bài thơ này đã được nhạc sĩ Dzũng Chinh phổ nhạc thành bài hát Tha La xóm đạo, và Sơn Thảo phổ nhạc thành bài hát Hận Tha La.

    ——–

    Nguồn:

    https://www.thivien.net/V%C5%A9-Anh-Khanh/Tha-La/poem-SMitnXguhuzG4snkwR1H7g

    ***

    Lời bài hát Tha La xóm đạo

    Lời bài hát

    Đây suối rừng xanh đồn quanh, đây mây trắng nghìn hoa với cây lành
    Còn gì viễn khách về đây chi hỡi người, đất Việt giặc tràn lan
    Biết Tha La hận căm, nhẹ bước gặp cụ già ngạo nghễ đang ngóng gió
    Em chẳng biết gì ư? Cười rung rung râu trắng
    Đã từ bao năm qua khói loạn phủ mịt mù

    Nghe gió quạnh hiu, người ơi còn ai biết gì vui để tâm sự
    Tận lòng đất đá chuyển rung bao thế hệ có từng đoàn người trai
    Biết bao nhiêu người đi, thề chẳng trở lại nhà, mà giờ đây đã chết
    Nghe gió rít từng cơn, buồn trưa trưa lây lất
    Và buồn xưa xưa ngây ngất, lòng càng não nùng

    Khách về chi đây, nghe tiếng hát khách hận gió đây buồn
    Tiếng hờn ai oán, cời ra áo một chiều thu lửa dậy
    Nghe não nùng chưa
    Tha La buồn tiên kiếp, Tha La giận mùa thu
    Thôi, khi hết giặc xong
    Hãy về thăm Tha La có trái ngọt cây lành

    Cây lá ngẩn ngơ nằm trên nghìn hoa máu làm hoen cả ven rừng
    Lòng người viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh với rừng già mong manh
    Đám mây tan phủ quanh, trời tối ngoẹn ngàn hàng
    Lạnh dài đôi khúc hát
    Vang giữa chiến trường xa, giặc đang gieo tang tóc
    Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng về nhà

    Nghe não nùng chưa?
    Tha La buồn tiên kiếp, Tha La giận mùa thu
    Thôi, khi hết giặc xong
    Hãy về thăm Tha La có trái ngọt cây lành

    Cây lá ngẩn ngơ nằm trên nghìn hoa máu làm hoen cả ven rừng
    Lòng người viễn khách bỗng dưng tê tái lạnh với rừng già mong manh
    Đám mây tan phủ quanh, trời tối ngoẹn ngàn hàng
    Lạnh dài đôi khúc hát
    Vang giữa chiến trường xa, giặc đang gieo tang tóc
    Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng về nhà

    Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng về nhà
    Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng về nhà
    Từng đoàn trai ra đi đã thề chẳng về nhà

  • ĐÊM CHÚA GIÁNG TRẦN

    ĐÊM CHÚA GIÁNG TRẦN – Gởi chị/em của tôi  – 2107 chữ

    Anne-Marie Gleason-Huguenin (Madeleine)- Nuit de Noël – À ma sœur. TL (Phan Nữ Lan) dịch

    Trong một túp lều nhỏ tồi tàn, với khung sườn gỗ trơ vơ để lộ những thanh xà đen đúa  cho gió lùa rít qua vô số khe hở, làm ánh sáng của chiếc đèn bầu thủy tinh màu đen nhấp nháy liên tục. Cùng với ngọn lửa nhỏ trong lò sưởi đang lụi tàn, những tiếng nổ lách tách cuối cùng  nghe  nghẹn ngào như tiếng than khóc của một tâm hồn đau khổ.

    Trên chiếc giường tồi tàn ọp ẹp, một người phụ nữ đang ngồi vá một  cái áo cũ trông như miếng giẻ rách. Từ thân hình nhỏ bé của đứa con trai nằm vùi dưới tấm chăn vải thô, mái tóc vàng hoe của nó lăn qua  lăn lại trên đùi cô.

    Bỗng từ trong sự tĩnh lặng của đêm tối, một loạt tiếng chuông nhẹ nhàng  ngân lên không trung khúc ca vui tươi với những hợp âm của mùa lễ hội, tuy yếu ớt nhưng ngọt ngào quyến rủ, được gió hiu hiu mang đến túp lều khốn khổ. Người phụ nữ trầm ngâm nghiêng vầng trán nhợt nhạt, buông thõng chiếc áo cũ kỹ… Cậu bé ngẩng đầu lên chăm chú lắng  nghe, rồi lẩm bẩm với vẻ run run sợ hãi theo bản tính của trẻ nhỏ :

    – Nhưng mẹ ơi, đó là tiếng chuông mà, mẹ!

    Cuộn mình vào lòng mẹ, nó ôm chặt cổ mẹ – đó là chiếc vòng đeo  huyền diệu nhất cho mẹ, tay bé vẫn còn run. Bà mẹ đặt môi hôn lên cánh tay  mũm mĩm của cậu, để rơi một giọt nước mắt xuống làn da mịn màng đang nóng ấm dần… Đứa trẻ lại rùng mình thỏ thẻ:

    – Mẹ ơi, tiếng chuông kia mà… sao mẹ lại khóc nữa, mẹ!…

    Thấy như thế, bé nức nở khóc, buồn rầu và hốt hoảng, tâm hồn bé thơ tràn ngập nỗi lo âu vì bí ẩn – không hiểu điều gì khiến mẹ nó khóc.

     Có lẽ hối hận và buồn đã khiến con phải khóc, cô trở nên  dịu dàng, say sưa hôn lên mái tóc vàng, vừa hôn vừa kể:

    -Con trai yêu, Con đang nghe chuông ngân vang  vì hôm nay là Lễ Giáng Sinh! Vào ngày xa xưa đó, một em bé đã chào đời trong chuồng ngựa…

    Đứa bé mở to đôi mắt kinh ngạc lắng nghe rồi  hỏi:

    – Nơi đó có xấu xa hơn ở đây không, mẹ?

    – Con yêu, xấu hơn nhiều. Và em bé vừa ra đời là Chúa Giê Su Hài Đồng, con của Thiên Chúa  và con biết không, Thiên Chúa là người đưa chúng ta đến trần gian để rồi sẽ cho ta lên thiên  đàng. Ở thế gian này chúng ta càng đau khổ, thì càng hạnh phúc  với Thiên Chúa. Con yêu, đêm nay, trong nhà thờ, mọi người sẽ cầu nguyện bên Chúa Hài Đồng xinh đẹp vừa chào đời.

    – Thật vậy sao Mẹ? Con chưa bao giờ nghe Mẹ kể chuyện này, phải không Mẹ?

    – Đúng vậy con, mẹ chưa kể vì trước đây con còn quá nhỏ!

    Cô tự hỏi có nên kể cho con nghe chuyện này không. Trong thâm tâm, lẽ nào cô đã quên  kể cho đứa con trai tội nghiệp của cô sao? – cô vẫn nhớ mình đã được mẹ kể cho biết về những gì sắp kể cho con nghe tối nay –

    – Kể cho con nghe chuyện này ư?

    Thật tình cô rất muốn, vì trong túp lều nhỏ chỉ có cô với đứa con bé bỏng, xa lánh sự tàn ác của loài người, vì họ đã không thương hại người mẹ trẻ khi tàn nhẫn xua đuổi cô lúc cô đến với họ, trên tay bế một thiên thần tóc vàng, và đang chịu tội thay cho người khác.

    Tuy vậy, cô vẫn khao khát lòng thương xót, sự đặc xá, và cầu xin khôi phục lại danh dự cho con mình. Cô vẫn hy vọng bằng  sự kiên nhẫn tuyệt  đối, cô sẽ tìm cách vượt qua định kiến đã tàn nhẫn đập vào cô. Và dù mọi người chế giễu nỗ lực của cô, lên án mạnh mẽ và lăng mạ cô, cả đôi khi những kẻ man rợ thậm chí còn xô đẩy đứa bé ngây thơ xinh xắn luôn mỉm cười với mọi  người, chỉ vì bé không hề hay  biết về sự độc ác và bất công của con người.

    Một ngày nọ, một mụ ác mồm ác miệng đã dang tay tàn nhẫn xua  đuổi cậu bé:

    – Cút đi, đồ ghẻ lở khốn nạn!

    Mụ quát vào mặt cậu bé lúc nó đang nhìn những đứa trẻ khác chơi đùa với ánh mắt khát khao được nhập bọn. Người mẹ chứng kiến hành động đó, và như một con sư  tử cái nổi cơn thịnh nộ, cô gầm lên, đẩy con mụ đáng ghét  bỉ ổi kia đi, rồi ôm chầm lấy con và chạy đi xa thật nhanh. Trong vòng tay cô, đứa bé cũng khóc to như mẹ. Từ ngày đó trở đi, cô ở mãi trong nhà cùng con, chỉ ra ngoài quanh khu đất nhỏ của mình để làm việc đồng áng và  chăm sóc vài con vật. Họ sống biệt lập, thậm chí cũng không đi lễ nhà thờ, vì lo sợ đứa trẻ tội nghiệp sẽ bị bọn họ cư xử thô lỗ như vậy.

     Ở góc khuất của khu làng này, định kiến đã giết chết sự hiền hòa, lòng tử tế, và quan điểm hẹp hòi, – tình cảm hạn chế đã bóp nghẹt mọi thứ,  bất cứ điều gì cũng không thể bị lãng quên, không thể xóa bỏ…

    Người phụ nữ đáng thương đang suy nghĩ về tất cả những nỗi kinh hoàng này, và trong suốt năm năm cô đã sống như một vị thánh, bao nhiêu tình thương yêu cô đều dành cho đứa bé tóc vàng. Đêm nay đứa con yêu của cô đã thấm hết những giọt nước mắt của người mẹ từng hy sinh quá nhiều, một người mẹ mang trái tim của tình yêu thuần khiết.

    Thật tội nghiệp cho cô  ấy, cho dù bị bọn họ nguyền rủa, khinh rẻ, chà đạp phẩm chất, chửi rủa bằng những lời lẽ cay độc, xét ra có đáng gì đâu? Tinh thần cô đủ mạnh mẽ để khinh miệt những sự truy bức, ngược đãi, hằn học này. Hơn nữa cô còn có đứa bé đáng yêu, cô sẽ luôn là người mẹ cũng đáng yêu của bé, và khi bé biết được cha mình là một tên tội phạm, bé sẽ nói:

    – Mẹ tôi yêu ông ấy, mẹ tôi là một vị thánh!

    Cô suy nghĩ về tất cả những điều này, và đã khóc làm ướt đẫm mái tóc vàng kia . Đứa trẻ ôm chặt bà hơn:

    – Mẹ ơi, bây giờ chúng ta đến nhà thờ, để xem Chúa Giê Su Hài Đồng đi Mẹ.

    Bà rất đỗi ngạc nhiên:

    -Không được đâu, con yêu, con hãy ngủ đi, ngủ đi con, để mẹ an lòng.

    Nhưng bé vẫn nài nĩ, với giọng nói  dịu dàng:

    -Mẹ ơi, chúng ta hãy cứ đi, được không mẹ?

    Cô không thể nào cho phép mình từ chối được nữa, vì bà không có quyền. Sinh vật bé nhỏ này không nhận được quà tặng nào; nó không hề biết quà là gì, và nó cũng chẳng đau khổ vì điều đó. Nhưng là người mẹ như cô, cô hiểu rõ nỗi kinh hoàng khi nhìn thấy những đôi guốc nhỏ để đựng quà[1] luôn trống rỗng, và giờ đây khi nhận ra rằng con mình không hề biết điều này, trái tim cô đau nhói vì nhớ đến biết bao niềm vui đã không còn nữa.

    Cậu bé được mẹ hối hả quấn lên người một miếng giẻ rách cũ, một trong những món đồ bố thí được thiên hạ khinh bỉ ném cho hai mẹ con như một chuyện bình thường. Sau khi choàng cho mình một chiếc khăn lên đôi vài gầy và cái lưng khòm vì khổ cực, cô đi vào bóng đêm, tay ôm chặt con.

    Đằng kia, ngôi nhà thờ sáng rực ánh đèn; trên đường di, cô lướt qua những người bộ hành đang xì xào khi thấy cô đến gần, nhưng cô làm như không thèm nghe họ nói gì. Cô đi thật nhanh, và khi nhìn thấy con không theo kịp, người mẹ liền cúi xuống bế bé lên và chạy xa khỏi chỗ họ.

    ===

    Trong một góc nhà thờ nhỏ, cô vừa mới quỳ xuống ở hàng ghế thì bị đẩy ra. Cô đành rời hàng ghế đó – nhưng rồi trong suốt bốn hàng như thế, cô vẫn bị đẩy ra và sỉ nhục … Người phụ nữ bất hạnh ngã xuống chấn song lan can, nơi những người nghèo đang cầu nguyện nãy giờ. Thấy cô, họ lùi xa ra, khinh miệt rõ ràng. Trước máng cỏ Chúa Hài Đồng, người phụ nữ bị ruồng bỏ cúi lạy trong khi đứa bé nhìn tượng Chúa, đôi mắt đẫm lệ, lòng dâng lên một tình cảm xúc động dịu dàng khi lần đầu được nhìn thấy Chúa.

    Khi nhận ra tất cả họ đều luôn ruồng bỏ hai mẹ con,  trong lớp quần áo rách rưới, cô đã bật khóc nức nở, nghẹn ngào cho niềm đau khôn nguôi của mình. Cô không cầu nguyện, chỉ khóc, trong khi mọi người thi nhau đến chỉ trỏ vào cô, là vợ của người đàn ông có tội nặng đã bị xử tử. Sau khi khóc một hồi , cô nhận thấy được cảm  giác bình yên.

    Bé đến bên mẹ, ôm  thật chặt vì cậu bé thiên thần yêu quý biết rằng những nụ hôn của bé sẽ lau khô tất cả những giọt nước mắt của mẹ.

    Và ở bên dưới máng cỏ, là bức tranh thật hài hòa tao nhã của hai mẹ con, với ánh nến nhợt nhạt càng khiến vẻ xanh xao của người phụ nữ đau khổ đáng  thương càng lộ rõ hơn lên, trong khi gương mặt của bé thì có vẻ như hồng hào hơn…

     Lúc tất cả mọi người cùng hát những bài thánh ca tuyệt vời, những bài hát mừng Giáng sinh cổ  xưa được yêu thích, với những âm thanh hòa hợp ngọt ngào vô tận ấy bay vút lên trời cao, như làn gió mơn man lướt qua, cùng với mùi hương trầm thơm ngát làm ngây ngất tâm hồn,… Đứa bé ngủ thiếp đi, mái tóc vàng hoe tựa vào ngực mẹ… Phần cô, cô vẫn cầu nguyện để cho bao nhiêu nỗi buồn được an ủi phần nào. Cô chợt cảm nhận trong thời gian xa xưa trước đây, cô đã biết cầu nguyện như thế nào trong niềm hạnh phúc ngọt ngào ấy. Hôm nay, cùng với con, cô sẽ học hỏi thêm nữa, bởi vì trong thánh lễ nửa đêm này, bao nhiêu niềm an ủi bỗng dưng đã đến với cô một cách huyền bí…

     Những hận thù bất công và những định kiến khủng khiếp có nghĩa lý gì? Cô buông tay, chán ghét việc phải chiến đấu thêm nữa, trong khi tâm hồn chìm đắm trong một giấc mơ huyền diệu.

    Và đứa bé yêu quý nằm trong vòng tay mẹ, trên môi nở nụ cười giống hệt Chúa Giê Su Hài  Đồng.

    ===================

    ĐÊM CHÚA GIÁNG TRẦN  –

    Anne-Marie Gleason-Huguenin (Madeleine)- Nuit de Noël – À ma sœur. TL dịch

    ===========


    [1] Theo phong tục cổ xưa ở các nước, chiều tối trước Giáng Sinh, các bé để đôi guốc (thường là bằng gỗ, ở nhà quê) ngay bên dưới lò sưởi- Truyền thuyết kể rằng ông già Nô En sẽ tụt từ mái nhà xuống qua ống khói của lò sưởi, và sẽ để quà của các bé (Ngoan) trong những đôi guốc ấy (ngày nay là những chiếc vớ dài) – Chú thích của người dịch

  • QUA BÃO LŨ CHỢT THẤY NẮNG HANH VÀNG…

    Huyền Tôn Nữ Huệ Tâm (VH-LVC)

    Hình: NẮNG CHAN HOÀ TRÊN TRỜI ĐÀ NẴNG CHIỀU 23/12/2025. Ảnh: do HỒNG HOA CHỤP

    Bão lũ qua đi nhưng đau thương còn lại…
    Những ngôi nhà sập trụi chưa được dựng xong
    Người bị nước cuốn trôi sao yên mồ mã…
    Mất mát quá nhiều dù bão lũ đi rồi

    Sáng nay bỗng trời xanh cao thăm thẳm
    Gió hiền hòa đón nắng mới lên
    Bà mẹ trẻ bế con ra sân tắm nắng
    Mấy cụ già cười vui xoa bóp chân tay
    Nắng đem sức sống cho muôn loài, mọi vật
    Nắng dịu dàng đẹp lắm nắng ơi!  

    Tôi mong nắng trải dài trên đèo Prenn, Mimosa Đà Lạt…
    Khô bùn lầy đường dốc, hố voi…
    Những điểm trường ở vùng cao 
    Học trò chân đến lớp vững vàng không bị trượt
    Để cô gái Hơ Mông đeo gùi ca hát
    Lên nương rẫy hái lá cây rừng
    Những bà mẹ dân tộc địu con trên lưng an tâm làm việc
    Bé ngủ ngon trong nắng ấm ban mai!  

    Ôi nắng vàng trời đông thơ mộng
    Xuân sắp về vạn vật chờ mong
    Và giọt nắng lang thang khắp chốn
    Đem chút ân tình rải khắp nhân gian!   

             Huyền Tôn Nữ Huệ Tâm 

                   23/12/2025

    Hình: Trời xanh ngăn ngắt trên biển ĐÀ NẴNG
    Hình do HỒNG HOA CHỤP CHIỀU 23/12/2025
  • Màu Xanh Noel (Nguyễn Văn Đông) –  Màu xanh hy vọng của Giáng sinh xưa

    Với nhiều người, có lẽ mùa Giáng Sinh là mùa đẹp nhất trong năm. Vượt lên trên ý nghĩa của tôn giáo, lễ Giáng Sinh trở thành ngày lễ chung và mang đến niềm vui đến tất thảy mọi người. Đây mà mùa mang đến những màu đỏ rộn vui và màu xanh của hy vọng.

    Màu xanh cũng là màu trong ca khúc nhạc Giáng sinh bất hủ của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông: “Màu Xanh Noel”. Ông cũng là tác giả của ca khúc rất quen thuộc trong Mùa Giáng Sinh là nhạc phẩm “Mùa Sao Sáng” suốt từ nửa thế kỷ qua.

    Nhạc phẩm “Màu Xanh Noel” được nhạc sĩ Đông viết ở âm thể Trưởng nhưng lại thoáng nét buồn, buồn man mác…

    MÀU XANH NOEL | sáng tác NGUYỄN VĂN ĐÔNG | trình bày Trần Tuấn Kiệt | hoà âm Quốc Huy:

    Ca khúc “Màu Xanh Noel” nói về tâm trạng của một cô gái yêu một người lính. Hai người đã cùng thề hẹn gặp nhau vào dịp Noel – một thực tế của thời chiến: “Mùa giáng sinh xưa anh hẹn anh sẽ về, ngày đó Noel bên hội sao trần thế”. Nhưng chàng đã trễ hẹn, không phải chàng quên lời hứa tình yêu với nàng mà vì chiến cuộc. Nàng thầm hỏi với chút hờn dỗi của người đang yêu:

    Mùa Giáng Sinh xưa anh hẹn anh sẽ về
    Ngày đó Noel bên hội sao trần thế

    “Anh có nhớ không anh?
    Em mặc màu áo xanh lam,
    Xanh như liễu Đà-lạt,
    Một chiều Đông Giáng Sinh”
    .

    Màu áo xanh lam là “đặc điểm tình yêu” của họ, nhưng phải là “xanh như liễu Đà-lạt” mới được.

    Màu xanh của thi sĩ Nguyên Sa lại “xanh màu lá sân trường”. Ông cũng đã từng si mê màu áo xanh nên ông so sánh: “Áo nàng xanh, anh mến lá sân trường”. Có lẽ nhiều người thích màu xanh vì nó là biểu tượng của niềm hy vọng, màu xanh kỳ diệu.

    Nàng biết chàng lỡ hẹn nhưng nàng vẫn hy vọng và nhớ lại đêm Giáng Sinh năm xưa:

    “Ngồi chờ rê-vây-dông (réveillons, canh thức),
    Anh kể tích xưa rằng, vào một đêm giá lạnh,
    Rợp trời hào quang thiên thần,
    Và nơi hang BeLem,
    Thiên Chúa sinh trên máng cỏ là Con Chúa Trời”.

    Có lẽ nàng là người ngoại đạo, còn chàng là người có đạo, thế nên chàng mới kể cho nàng nghe “cổ tích” về Thiên Chúa, và chàng khẳng định bằng đức tin: “Nơi hang BeLem, Thiên Chúa sinh trên máng cỏ là Con Chúa Trời”. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông nói vậy là ông đã truyền giáo đấy.

    Kỷ niệm đẹp bỗng hóa ký ức bâng khuâng:

    “Ngày tháng trôi đi qua mau,
    mùa sao sáng năm nào,
    giờ cũng Noel một mình em thẫn thờ,
    quỳ bên hang đá nguyện cầu:
    Một người chân mây gió được sống gần nhau”.

    Tuy nàng có chút thất vọng nhưng nàng chưa tuyệt vọng, nghĩa là nàng vẫn có tia sáng hy vọng, nên nàng cầu nguyện cho chàng (người chân mây gió) và nàng “được sống gần nhau”. Tình yêu có nhớ nhung mới là tình yêu đích thực, và tình yêu đích thực sẽ đơm hoa kết trái là đời sống hôn nhân.

    Ngày quen nhau, nàng mặc áo màu xanh. Chiếc áo đó vẫn được nàng nân niu cất giữ cho lần hẹn đêm Giáng Sinh năm sau:

    “Tà áo năm xưa xanh màu thông Ðà-lạt,
    dành đến năm sau khi cùng anh dạo phố”.

    Tình yêu thật đẹp, hẹn hò thật lãng mạn, nàng chỉ muốn mặc áo xanh khi có chàng bên cạnh cùng dạo phố, và cũng là dấu ấn không thể phai nhòa:

    “Để nhớ Giáng Sinh xưa, kỷ niệm ngày Chúa ra đời,
    Cho em sống lại màu xanh ái ân”.

    Kỷ niệm tình yêu đã là tuyệt vời, kỷ niệm đó còn trên cả tuyệt vời vì đó chính là “kỷ niệm ngày Chúa ra đời”. Kỷ niệm tình yêu của họ đã được ghi dấu của Ơn Thánh, thế thì sao lại không tuyệt vời chứ?

    Kỷ niệm vui là kỷ niệm buồn, kỷ niệm buồn là kỷ niệm buồn hơn. Cái vui không làm người ta nhớ lâu, nhưng cái buồn khiến người ta nhớ mãi. Buồn mà không lụy, khổ mà không đau, sầu mà không thảm, cảm mà không phiền,… để làm gì? Để màu xanh vẫn thắm sắc hy vọng.

    Tác giả Trầm Thiên Thu

    Nguồn: https://www.facebook.com/nhacvang

    ***

    Lời bài hát: Màu xanh Noel – NS Nguyễn Văn Đông

    Mùa Giáng Sinh xưa anh hẹn anh sẽ về
    Ngày đó Noel bên hội sao trần thế
    Anh có nhớ không anh
    Em mặc màu áo xanh lam
    Xanh như liễu Đà Lạt
    Một chiều đông Giáng Sinh

    Ngồi chờ Réveillon
    Anh kể tích xưa rằng
    Vào một đêm giá lạnh
    Rợp trời hào quang thiên thần
    Và nơi hang Bê-Lem
    Thiên Chúa sinh
    Trên máng cỏ là con Chúa Trời

    Ngày tháng trôi đi qua mau
    Mùa sao sáng năm nào
    Giờ cũng Noel một mình em thẫn thờ
    Quỳ bên hang đá nguyện cầu
    Một người chân mây gió
    Được sớm gần nhau

    Tà áo năm xưa
    Xanh màu thông Đà Lạt
    Dành đến năm sau
    Khi cùng anh dạo phố
    Để nhớ Giáng Sinh xưa
    Kỷ niệm ngày Chúa ra đời
    Cho em sống lại màu xanh ái ân

  • Câu chuyện có thật về đằng sau ca khúc Hai Mùa Noel (Đài Phương Trang)

    Câu chuyện có thật về đằng sau ca khúc Hai Mùa Noel (Đài Phương Trang) – “Mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường…” 2020/12/14

    Từ xưa đến nay, tại Việt Nam, mà đặc biệt là ở Sài Gòn, Noel không còn chỉ là lễ hội của người Công Giáo, mà trở thành mùa lễ hội chung của lương dân. Đêm 24 của tháng 12 dương lịch mỗi năm, người dân đổ ra đường để chào đón ngày Giáng Sinh. Cho dù ở Việt Nam không có cái lạnh lẽo thực sự của đêm đông, không có tuyết giăng trắng lối ngập đường, nhưng không khí se lạnh đặc biệt của ngay đêm Giáng Sinh cùng với đèn hoa lấp lánh làm cho lòng người rộn rã, tràn ngập những yêu thương trong không khí đón chào mùa lễ hội.

    Một mùa Giáng Sinh của gần nửa thế kỷ trước ở Sài Gòn, có một nhạc sĩ đã hòa vào dòng người đó để đi dự lễ ở Nhà Thờ Đức Bà, rồi chứng kiến một cảnh tượng gây xúc cảm để ông sáng tác thành một bài hát luôn luôn góp mặt trong danh sách những bài nhạc mùa Noel được yêu thích nhất, đó là nhạc sĩ Đài Phương Trang với ca khúc Hai Mùa Noel. Kể lại với báo giới, nhạc sĩ kể lại rằng đó là 9 giờ đêm ngày 24/12/1972, ông có mặt trước nhà thờ và chợt thấy một thanh niên trang phục lịch sự đứng bên gốc cây, có vẻ đang ngóng đợi một điều gì.

    Đến giờ Thánh Lễ, mọi người đều tiến về phía giáo đường thì người thanh niên ấy vẫn chỉ đứng đó, mắt nhìn bốn phía, gương mặt lộ vẻ lo âu, thỉnh thoảng đưa tay xem đồng hồ…

    Hình ảnh đó cứ ám ảnh trong tôi. Rồi khi tan lễ vào lúc nửa đêm, đoàn người lũ lượt ra về, tôi để ý và rất ngạc nhiên khi thấy người thanh niên vẫn còn đứng ở chỗ cũ với vẻ bồn chồn, buồn bã. Tôi đi ngang qua và khẽ nhìn khuôn mặt người ấy, lòng thầm cám cảnh cho một người mãi đợi chờ mà người kia không hiểu vì sao lại không đến chỗ hẹn?” – nhạc sĩ Đài Phương Trang kể lại.

    Đến mùa Noel năm sau (1973), khi này nhạc sĩ Đài Phương Trang làm việc trong hãng băng dĩa Continental – Sơn Ca của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông làm giám đốc, đang thực hiện cuốn băng Sơn Ca số 3 chủ đề Giáng Sinh. Ông giám đốc đã đề nghị nhạc sĩ Đài Phương Trang viết một ca khúc về Noel. Khi đó nhạc sĩ nhớ lại hình ảnh một năm trước đó, cảm xúc cũ lại hiện về tràn ngập trong lòng, nên chỉ trong vòng 2 tiếng đồng hồ đã hoàn thành ca khúc Hai Mùa Noel. Bài hát này được ca sĩ Anh Khoa thu âm đầu tiên và được phát hành vào dịp Noel năm 1973 trong băng Sơn Ca 3.

    Mời bạn nghe sau đây: PBN 112 | Minh Tuyết & Trần Thái Hòa – Hai Mùa Noel

    Mùa Noel đó chúng ta quen bên giáo đường.
    Mùa Noel đó anh dắt em vào tình yêu.
    Quỳ bên hang sâu nghe lời kinh thánh vang cầu.
    Nhìn nhau không nói nên câu vì biết nói nhau gì đâu.
    Mùa Noel qua chúng ta chia tay giã từ.
    Hẹn nhau năm tới khi Giáng Sinh về muôn nơi.
    Mình trao cho nhau hoa lòng nhẫn cưới thiệp hồng.
    Dìu nhau xem lễ đêm Đông.
    Bên nhau muôn đời em ơi
    Nhưng nay, mùa Noel đến rồi.
    Từng đêm anh vẫn nguyện cầu, cầu cho ta mãi yêu nhau.
    Đêm nay giáo đường vang tiếng kinh cầu.
    Nơi xưa mình anh đứng không thấy bóng em đâu.
    Nửa đêm tan lễ bước chân bơ vơ trở về.
    Chợt nghe nước mắt rơi ướt trên bờ môi khô.
    Rồi Noel qua như mộng ước cũng xa rồi.
    Gặp nhau chi để thương đau
    Yêu nhau sao đành xa nhau?

    Có thể thấy với tâm hồn nhạy cảm của một nhạc sĩ, chỉ cần một khung cảnh thoáng qua trước mắt cũng đủ để Đài Phương Trang viết thành bài hát về một chuyện tình buồn thương trong mùa Noel, mà hầu hết là do nhạc sĩ tưởng tượng ra.

    Tình yêu của đôi tình nhân trong bài hát được bắt đầu vào một đêm Giáng Sinh đầy lãng mạn. Họ gặp nhau khi cùng đến nhà thờ, rồi sau đó cùng chung ước nguyện:

    Hẹn nhau năm tới khi Giáng Sinh về muôn nơi.
    Mình trao cho nhau hoa lòng nhẫn cưới thiệp hồng.
    Dìu nhau xem lễ đêm Đông. Bên nhau muôn đời em ơi!…

    Nhưng đó là lần đầu tiên và cũng là duy nhất mà chàng trai được quỳ cạnh người mình yêu trong đêm Noel. Không hiểu vì lý do gì, mối tình đẹp đó đã tan vỡ để lại bao khổ đau tiếc nuối:

    Rồi Noel qua như mộng ước cũng xa rồi.
    Gặp nhau chi để thương đau
    Yêu nhau sao đành xa nhau…

    Dù là một câu chuyện tưởng tượng được nhạc sĩ cảm tác khi nhìn thấy một chàng trai lẻ loi chờ đợi người yêu trong đêm Noel, nhưng có lẽ bài hát đồng cảm được với hoàn cảnh của nhiều người, nên Hai Mùa Noel trở thành một trong những bài tình ca buồn được mở nhiều nhất mùa Giáng Sinh hàng năm.

    Câu chuyện về bài hát còn ly kỳ hơn nữa, khi mà sau này nhạc sĩ Đài Phương Trang kể lại rằng chỉ 2 tuần sau khi bài hát được phát hành và công chúng đón nhận, nhạc sĩ đã nhận được thư của người tên Thanh gửi đến. Trong thư, ông Thanh tự nhận mình chính là người thanh niên đã đứng chờ người yêu trước Vương Cung Thanh Đường vào năm trước đó, và ngỏ lời cảm ơn nhạc sĩ đã viết lên nỗi lòng của mình. Ông cũng cho biết nhờ ca khúc này mà gặp và nối lại tình yêu với cô Duyên, là người con gái đã không đến chỗ hẹn vào đêm Giáng Sinh năm 1972 vì một sự hiểu lầm.

    Tình yêu của họ ngỡ đã tan vỡ, nhưng nhờ bài hát với những ca từ và hình ảnh về chàng trai cứ đứng chờ người yêu, mãi đến lúc tan lễ mà vẫn chưa về đã gây xúc động cho Duyên. Cô cảm nhận được tình cảm chân thành của ông Thanh, bao nhiêu hờn trách, hiểu lầm vụt tan biến và họ đã nối lại mối duyên tình.

    Sau đó, nhạc sĩ Đài Phương Trang có hẹn gặp ông Thanh và nhận ra đúng Thanh là người thanh niên năm trước đã để lại trong trí ông một ấn tượng khó quên. Khoảng 3 tháng sau, ông nhận được thiệp hồng và đã đến dự lễ cưới của Thanh – Duyên.

    Nhạc sĩ Đài Phương Trang

    Trên báo Thanh Niên, nhạc sĩ Đài Phương Trang tâm sự:

    “Tôi được thêm 2 người bạn mới. Nhưng sau 1975 Thanh và Duyên không còn ở Sài Gòn nữa mà chuyển về quê tận Cần Thơ sinh sống. Bẵng đi một thời gian, khoảng 3 năm sau tôi nhận được tin vợ chồng họ đã ra nước ngoài. Từ đó đến nay, đã gần 40 năm rồi, tôi không hề nhận được một tin tức nào về Thanh và Duyên. Không biết họ ở đâu? Mỗi năm vào mùa Giáng sinh, lòng tôi lại rộn lên những cảm xúc buồn vui khó tả. Vui vì ca khúc Hai mùa Noel qua mấy chục năm vẫn được công chúng hát lên đón mừng Giáng sinh. Buồn vì không biết hai người bạn có liên quan đến nội dung của ca khúc này, bây giờ trôi dạt đến phương trời nào? Nhưng dù bây giờ hai bạn ấy ở bất cứ nơi đâu tôi vẫn luôn mong họ được an lành trong mỗi mùa Noel và trong cuộc sống hằng ngày. Qua Báo Thanh Niên, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn và tri ân đến các bạn yêu nhạc, dù qua mấy mươi năm nhưng cứ mỗi dịp đón Giáng sinh lại vẫn nhớ đến và hát lên ca khúc Hai mùa Noel” đầy cảm xúc và nỗi niềm của tôi”

    Đông Kha (nhacxua.vn) biên soạn

    Nguồn: https://nhacxua.vn/cau-chuyen-co-that-ve-dang-sau-ca-khuc-hai-mua-noel-dai-phuong-trang-mua-noel-do-chung-ta-quen-ben-giao-duong/

  • Nhóm thân hữu Đà Nẵng họp mặt cuối năm 2025 và bàn về Hội khóa Đà Nẵng – Hội An 2026

    Sáng nay tại Café Én Vàng 22 Cô Giang, nhóm thân hữu cựu SV ĐHSP Huế hai khóa LVC và HTK tại Đà Nẵng, đặc biệt có anh Trần Dư Sinh từ Huế vào, hàn huyên tâm sự và thảo luận sôi nổi về Hội khóa 2026 tại Đà Nẵng-Hội An sắp tới . Mong được gặp lại tất cả các bạn . Chúc an vui.

    Hàng ngồi, trái sang: Lê Thị Định (T-HTK), Nguyễn Thị Trinh (VH-HTK), Nguyễn Thị Vinh (AV-LVC), Nguyễn Thị Hồng (VH-HTK), HTN Huệ Tâm (VH-LVC), Võ Thị Vũ (VH-HTK)
    Hàng sau: Nguyễn Em (T-HTK), Nguyễn Văn Xoa (SĐ-LVC), Lê Văn Thành (VH-HTK), Tống Văn Thụy (SĐ-LVC), Anh Thưởng (phu quan bạn Võ Thị Vũ), Lê Thí (SĐ-HTK), Trần Dư Sinh (T-HTK), Trần Bá Hà (T-LVC), Phan Phước Hiệp (LH-HTK)

    Nguyễn Thị Vinh (AV-LVC)

    ***

    Hôm nay, chúng ta họp không những ĐÔNG mà còn VUI nữa. 16 người, con số tròn trăng rất đẹp. Nội dung Hội khóa 2026 anh Thụy phác thảo làm nóng lên bầu không khí ĐN đăng cai. Năm2016, mình đã tổ chức. 10 năm sau tái ngộ thật là háo hức. Các vấn đề: thời gian, lưu trú, văn nghệ, làm báo, MC, mời Thầy phát biểu, học sinh của chúng ta nói lên cảm tưởng, đóng góp kịnh phí, hỗ trợ nhau, slogan… đã được đem ra bàn rất là hay, có nhiều ý kiến bổ sung. Tiếc là Ba có việc phải về sớm chút. Chắc lần sau họp chương trình sẽ hoàn thiện hơn. Bây giờ lo về tìm ảnh và viết đoạn văn ngắn gởi về cho bạn Sinh trước ngày 15/3/26.

    Kế hoạch phác thảo sẽ do BTC Đà Nẵng đăng lên website hai khóa để các bạn góp ý.

    Lê Thị Ba (VH-HTK)

    ***

    Ghi chép của bạn HTN Huệ Tâm (VH-LVC):
    HỌP MẶT TRÙ BỊ HỘI KHOÁ ĐÀ NẴNG 2026
    -Chủ trì họp mặt: anh Tống văn Thụy và anh Trần dư Sinh ( từ Huế vào tham dự) lúc 8h tại cà phê ÉN VÀNG ĐN trù bị. Phác thảo sơ lược, dự kiến thời gian khoảng trong vòng 15/4 đến 20/4/2026

    • tham dự 16 thành viên ngày 18/12/2025
      Toàn thể đã dự thảo chương trình Hội khóa như sau:
    • thời gian 3 ngày 2 đêm .
      Cụ thể : ngày đầu tiên họp mặt và lưu trú, Khai Mac tại ĐN ( khách sạn THANH BÌNH ), đọc diễn văn khai mạc do anh Thụy phụ trách, mời thầy NGÔ THẾ PHIỆT phát biểu,…, ăn tối.
    • ngày thứ hai: ăn sáng tại ĐN sau đó lên xe vào HỘI AN. Đốt lửa trại tại Hội An.
      Ăn ở một khách sạn rất hoành tráng.
    • ngày thứ ba: trưa chia tay tại Hội An . Buổi tối nếu bạn muốn lưu trú để khám phá thêm Hội An phố cổ sẽ ở tại KS AN BÀNG (do BTC Lo)
    • Về TẬP SAN: khoảng 200 trang. Mỗi bạn sẽ gửi 1 hình ảnh của chính bạn và người thân như vợ , chồng , con… hay một vật rất ưu ái nhé cây cỏ con vật… vào tấm Ảnh. Và tự đặt nhan đề , viết khoảng 1 trang giấy A 4 về chủ đề Tự chọn ( có liên quan đến tấm hình của bạn.) Gửi đến bạn TRẦN DƯ SINH (hạn chót 15/3/2026)-
    • Văn Nghệ : trung đội SÀI GÒN rất giỏi về mục này nên đề nghị Sài Gòn phụ trách chương trình văn nghệ Hội khóa 2026.
      Đòan ĐN đăng kí 3 tiết mục như sau : đơn ca Võ thị Vũ, 1 tốp ca Trường Làng tôi (nhạc sĩ Phạm trọng Cầu) và song ca)
    • Mc : LE THÍ, VÕ THỊ VŨ
      HỘI KHOÁ ĐN CÓ Ý MUỐN HỖ TRỢ CÁC BẠN CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN THAM GIA HỘI KHOÁ 2026 tại ĐN . Vậy mong các Mạnh thường quân giúp đỡ kinh phí.
    • Riêng HTN HUỆ TÂM SẼ HỖ TRỢ CHỊ XUÂN HOA (AV – LVC) lệ phí ăn ở lưu trú và tham dự hội khóa 3 ngày tại ĐN và Hội An. Chị Xuân Hoa cố gắng sắp xếp để tham dự nhé! Rất mong!
    • SLOGAN chính thức anh Thụy sẽ thông báo có đủ Đà Nẵng và Hội An
      Rất mong một hội khóa thành công mỹ mãn
      Kính chúc tất cả mạnh khoẻ để đi Hội khóa 2026 Đà Nẵng Hội An
      Ghi chép:
      Htn Huệ Tâm
      18/12/2025
    • ***
    • Kế hoạch chi tiết sẽ gửi sau.

    Nguyễn Em cùng vợ chồng Nguyễn Văn Xoa và Lê Thị Định
    Bạn LÊ THÍ góp ý về dự thảo Chương trình hội khóa 2026
  • Thơ: TRÊN ĐỈNH BÀ NÀ MÙ SƯƠNG

    TRÊN ĐỈNH BÀ NÀ MÙ SƯƠNG(*)

    Trên đỉnh Bà Nà cao vời vợi…
    Mây trắng giăng giăng khắp lối
    Lãng đãng trời xanh
    Núi Chúa lung linh
    Sương mù bàng bạc.

    Ai đem kim cương lóng lánh phủ Bà Nà?
    Ai khoác tấm áo bạc lộng lẫy kiêu sa?
    Từ chốn xa
    Trôi về trên đỉnh Bà Nà
    Để khung trời thêm óng ả
    Cao lồng lộng
    Xanh thăm thẳm, gió hát ca
    Đàn bướm chập chờn chao cánh…
    Rợp động hoa vàng.

    Trên đỉnh Bà Nà mù sương…
    Bốn bề lộng gió
    Đường đèo uốn lượn quanh co
    Giọt nắng màu hoa cà
    Rơi trên mắt em hiền dịu
    Chùa Linh Ứng ẩn chốn mây trời
    Phật từ bi thiền định
    Tiếng chuông chùa ngân vọng giữa thinh không!

    Trên đỉnh Bà Nà…
    Sớm xuân về mênh mông huyền ảo
    Thiếu nữ mộng mơ dõi mắt trời xa
    Sương khói lửng lơ bay theo suối tóc
    Thoang thoảng hương rừng
    Tình ai vấn vương…
    Lòng nhớ thương da diết…
    Một mai khi xa cách Bà Nà!

    Huyền Tôn Nữ Huệ-Tâm
    Đà Nẵng, 24.4.2014

    (*) Núi Bà Nà cách thành phố Đà Nẵng khoảng 46 km về phía Tây. 
    Hiện nay Bà Nà trở thành khu du lịch nổi tiếng của Đà Nẵng, thu hút nhiều khách nội, ngoại tỉnh, khách nước ngoài đến tham quan, vui chơi và nghỉ dưỡng.

    Hình: (trái qua) BÙI NHƯ ÁNH, ĐOÀN PHÙNG THUÝ LIÊN, TRẦN VI HIẾN, HUỆ TÂM tham quan khu du lịch cáp treo BÀ NÀ
  • QUÁN KỲ NAM – HẠNH PHÚC NHỎ CŨNG LÀM TA MUỐN KHÓC

    Nguyễn Thị Tịnh Thy

    Quán Kỳ Nam là phim điện ảnh mới ra rạp hôm 28/11/2025.

    Xem xong, lòng man mác cảm xúc về cái đẹp bình thường của cuộc sống, của tình yêu, tình người, tôi viết mấy dòng này tỏ bày lòng trân trọng và biết ơn ê-kíp làm phim đã cho mình được thưởng thức một tác phẩm điện ảnh đúng nghĩa.

    Kịch bản hay, cốt truyện chặt chẽ, trước sau – đầu cuối hô ứng với nhau mạch lạc trong từng chi tiết, tiểu tiết. Tất cả đều rất tinh tế, kín đáo chứ không lộ liễu, đủ để khán giả suy tư, suy ngẫm mà không quá thách đố nặng nề.

    Phim là câu chuyện về tình yêu và tình người của một khu chung cư cũ ở Sài Gòn vào thập niên 1980. Cô Kỳ Nam tuổi trung niên, vợ của một sĩ quan tâm lý chiến VNCH, từng nổi tiếng trên báo chí và truyền hình về tài dạy nữ công gia chánh. Sau 1975, trong căn bếp nhỏ, cô nấu cơm tháng cho người ta, nuôi chồng nuôi con. Khang – chàng trai giỏi tiếng Pháp, yêu văn chương nghệ thuật, đang dịch lại “Hoàng tử bé” của Saint–Exupéry. Sự đời đưa đẩy, lòng tốt đã khiến họ gặp nhau, gần nhau, hiểu nhau và yêu nhau – một tình yêu đẹp đẽ, trong sáng, tinh khôi giữa bộn bề của cuộc sống với nhiều mất mát, kiếm tìm, hy vọng và tuyệt vọng.

    Tác giả kịch bản và đạo diễn lựa chọn sự tinh tế, sâu lắng thay vì kịch tính, dữ dội và ngang trái. Đó là một thử thách thực sự cho biên kịch, đạo diễn và diễn viên. Phải có một nội lực mạnh mẽ lắm, người đàn bà – thiếu phụ – goá phụ Kỳ Nam mới có thể chôn chặt những nỗi đau thất cơ lỡ vận, thay thân đổi phận xuống tận đáy lòng để bình thản sống, chờ đợi, hy vọng và chấp nhận mất mát. Tự miệng nhân vật không thốt ra một lời nào, tất cả bi kịch của đời nàng đều được hé lộ từ những nhắc nhớ tình cờ của người khác. Ở Kỳ Nam, ta chỉ thấy vẻ đẹp và cái đẹp cao sang đến giản dị, thánh thiện đến gần gũi và táo bạo đến bình thường – tự nhiên nhi nhiên – như cái gì đến thì sẽ đến. Kịch tính của nhân vật Kỳ Nam là kịch tính ngầm. Tất cả tích tụ lại trong đôi mắt, bờ vai, dáng người, lời nói ít ỏi nhưng rắn rỏi và trí tuệ, vẻ thẫn thờ, ngấn nước mắt. Những cơn bão cuộc đời, cơn sóng lòng của nàng lắng lại ở đó đòi hỏi diễn viên phải diễn xuất thật tốt. Đỗ Hải Yến đã làm được! Cô đã làm toát lên cái chất kỳ nam – vưu vật của tạo hoá – trong một người đàn bà đi qua giông bão tảo tần của cuộc đời vẫn giữ được cốt cách thanh cao, quý phái, lãng mạn mà đoan trang.

    Kịch bản chọn từ khoá “chừng mực” để triển khai mọi yếu tố nghệ thuật khác. Tình cảm chừng mực, nụ hôn chừng mực, cái ôm chừng mực, cái xấu chừng mực, cái đẹp chừng mực, mâu thuẫn cũng chừng mực. Chừng mực mà không nửa vời, không ba phải. Chừng mực để con người ta có chút thoáng ngã lòng để không buông thả, thoáng đau đớn để không gục ngã, thoáng hờn ghen để không mạ mị, thoáng xấu xa để không tha hoá, thoáng tuyệt vọng để không kiệt quệ, thoáng buông lơi để không cuồng dại… Các nhân vật đều diễn được “chút thoáng” đó, và họ đều diễn rất tròn vai, từ vai chính của Kỳ Nam, Khang; cho đến các vai phụ như Su, ông Hạo, Đôn,…

    Không gian chính của phim rất nhỏ hẹp, tập trung vào khu chung cư cũ với ti vi cũ, máy hát cũ, bản nhạc cũ, bàn cờ cũ, xe đạp cũ, những con người cũng “muôn năm cũ” của Sài Gòn một thời hoa lệ. Ánh sáng phim rất nhạt nhưng không gây cảm giác nặng nề; đủ để người xem nhận ra những trì đọng, cũ kỹ, tăm tối, khốn khó của một thời.

    Với những người Sài Gòn xưa và những người từng biết, từng yêu Sài Gòn, cái làm ta xao xuyến vẫn là cái cũ: những bản “nhạc vàng” đậm chất vàng mười như nói thay nỗi lòng da diết và khắc khoải của nhân vật: “Xin thời gian qua mau” của Lam Phương qua giọng hát của Thanh Thuý, “Bến giang đầu” của Lê Trọng Nguyễn qua giọng hát của Hà Thanh” và “Thu sầu” của Lam Phương qua giọng hát Thái Thanh; lời bài thơ “Trường tương tư” của Lương Ý Nương; những câu văn triết lý nhẹ nhàng trong “Hoàng tử bé” hoặc của danh nhân Yersin; lối sống an bần lạc đạo với chim muông, âm nhạc, cờ tướng; nhịp điệu nước mía, cà phê sớm, chợ khuya của Sài Gòn… Và hơn hết thảy là cốt cách của người Sài Gòn – cốt cách ấy cũng như chất kỳ nam, trải qua bao mưa nắng biến động rục rã mà kết tinh thành gỗ quý; cốt cách ấy cũng như ngọc trai, âm thầm quằn quại vì đau đớn mà tiết ra chất ngọc.

    “Chừng mực” của phim cũng đủ cho ta thấy những sự kiện chính trị – xã hội của Sài Gòn sau ngày thống nhất đất nước. Đó là bữa tiệc sinh nhật bị lập biên bản; là ông già tư sản bị tịch biên tài sản; là đứa con lai bị kỳ thị, bị mua bán; là viên sĩ quan cải tạo không trở về; là những người bỏ xác trên biển vì giấc mơ Mỹ không thành; là chuyện đổi tiền, chuyện gửi gắm cho “con ông cháu cha”…

    Muôn mặt của Sài Gòn đều được tái hiện. Tái hiện để thấy những điều đã từng xảy ra, từng trôi qua; tái hiện chứ không đổ lỗi hay quy kết; tái hiện để hiểu hơn, hiểu sâu về bối cảnh xã hội chứ không nhằm mục đích khơi lại vết thương ngày cũ. Tái hiện này cũng chính là chất Sài Gòn của bộ phim – một Sài Gòn bao dung và hồn hậu, khiến tận trong sâu thẳm cõi lòng, ta thấy bình yên.

    Sự kiện chính của phim là mối tình vượt qua khoảng cách về tuổi tác, về xuất thân của hai con người tìm thấy sự đồng điệu ở tình yêu văn chương nghệ thuật và lòng trắc ẩn với cái đẹp, với tình người. Nhưng bối cảnh phim cho thấy tác giả kịch bản và đạo diễn đã chạm đến những vấn đề vốn vắng bóng lâu nay: đó là nỗi đau con lai và nỗi đau vượt biên. Không lên gân, không dữ dội, không lên án, không kết tội, không quá buồn,… nhưng đủ làm ta nhớ, ta đau.

    Phim có nhiều hình ảnh ẩn dụ mang tính biểu tượng rất giản dị, rất đời thường mà chất chứa và biểu đạt được nội tâm của nhân vật: chiếc chìa khoá cổng ở đầu và cuối phim, viên gạch chặn cửa,… đều thay lời muốn nói.

    Nhân vật không nói, không khóc bằng lời mà bằng các hành động phi ngôn ngữ như ánh mắt, nét mặt, mái đầu, bờ vai, cái ôm, cái nắm tay, khoảng lặng,…

    Không có những cú máy, góc quay độc đáo, hiện đại và hầu như không dùng kỹ xảo; chuyện phim không gai góc, cật vấn; nhưng Quán Kỳ Nam đúng là điện ảnh ra điện ảnh. Tất cả mọi yếu tố nghệ thuật đều vừa đủ cho những điều cần nói và không nói; cho chất bình thường lẫn bất thường và vô thường đan quyện; cho người trẻ lớn khôn thêm, cho người già trẻ lại…

    Và hơn hết là cho Sài Gòn ra Sài Gòn.

    Ta tìm lại một Sài Gòn chưa xa – tại thời điểm giao thoa giữa cũ và mới, giữa mất và còn, và ta xao xuyến, xúc động.

    Hạnh phúc nhỏ vậy thôi, nhưng đôi khi “Hạnh phúc nhỏ cũng làm ta muốn khóc/ Đừng nói chi những chuyện xa vời”.

    (Nguyễn Thị Tịnh Thy)

    *****

    – Nguồn ảnh: https://www.facebook.com/moveekvn

    – Hai câu thơ cuối của bài viết chưa rõ tác giả.

    ***

    Mời đọc thêm bài viết của thầy Cao Huy Hóa (Toán khóa Nguyễn Du, tốt nghiệp 1963):

    HƯƠNG XƯA THỀM CŨ

    Nếu có ai đó như tui, một buổi chiều âm u, lọ mọ leo thang máy lên tầng cao chót vót để… xem phim, thì có thể bị xem xưa nay hiếm, nhất là thời buổi bây giờ; thế nhưng nếu như biết được hôm đó, rạp chỉ có… 10 người xem, thì chắc mọi người thông cảm. Ít người thì ông già bớt dị, và gật gù: Của hiếm như kỳ nam thì làm sao nhiều người biết tới?

    Kỳ Nam là một ẩn dụ, với trầm kỳ nam là trầm vô cùng quý, một loại trầm hương đặc biệt và hiếm có, được hình thành từ nhựa cây Dó Bầu khi chúng bị nhiễm nấm hoặc bị thương. Nó là “tinh hoa” của trầm hương, có giá trị cao gấp nhiều lần trầm thông thường do sự hình thành phức tạp và tích tụ tinh dầu đậm đặc hơn.

    Ẩn dụ đó là trong một phim, từ chất liệu cuộc sống (hư cấu) của một thiếu phụ đã từng là một vợ một sĩ quan cấp cao thời VNCH trước 75, là một cô giáo nữ công gia chánh đoan trang, từng trải, với một sự nghiệp đáng kể giữa Sài gòn đô hội, thế rồi qua bước ngoặt lịch sử, phải âm thầm kiếm sống bằng nghề nấu cơm tháng trong một chung cư đông đúc, trong hoàn cảnh chồng con trôi nổi theo dòng đời và nước biển. QUÁN KỲ NAM là quán đứng tên thiếu phụ đó, là nhan đề của phim mới ra mắt, khá âm thầm.

    Quán là tâm điểm của một quần cư hỗn tạp với dân lao động, thừa cá tính, đa dạng nghề; từ anh bán chai bao, đồ phế liệu đến ông già châm cứu, mê cờ tướng và chính ông già đó thời trước là tư sản với khối bất động sản to đùng, nay chỉ còn là một góc trong chung cư để hành nghề; từ mấy bà sồn sồn lắm chuyện cho đến những cô gái còn giữ nét e lệ… Không gian sống chật chội, tránh nhau mà đi, nhưng cũng đủ chỗ để dung chứa tình người.

    Nhân vật chính, như chứng nhân thời đại, là một trí thức từ ngoài kia vô, mải mê với tác phẩm Le Petit Prince (Hoàng tử bé) của Antoine de Saint-Exupéry, nghiềm ngẫm dịch cho bằng được; và thế là chất trí thức gặp gỡ cái sự thông minh từng trải của người thiếu phụ Sài gòn để đi đến cái kết nhẹ nhàng chấp nhận được.

    Phim như gợi hương xưa, tưởng như phôi pha theo năm tháng, thế mà được những nhà sản xuất và đạo diễn nhặt lấy nơi thềm cũ, và chắc là người làm phim không mong chi ăn khách, không mong chi đạt doanh thu bao nhiêu tiền tỷ, mà chỉ mong lấy chuyện cũ mà sáng tạo.

    Tôi xin viết cho vui, và tuổi tác này thì khó mà viết đúng và đủ; tôi chỉ xem, tưởng tượng và thỉnh thoảng lùi về thời xa xưa… như khi đang lim dim thì một giọng ca cất lên, cao, sang, nhẹ, huế: Chao ơi, Hà Thanh! Bến Giang Đầu của Lê Trọng Nguyễn!

    Phim hay rứa, ý nghĩa rứa, xứng đáng để những ai đứng tuổi hoài niệm và sống chậm đi xem lắm chớ, nhất là những người còn lưu giữ một chút hương xưa thềm cũ – một chút cũng là quý trong thời đại này. Nhưng thôi rồi, “gánh hát” đã đi qua Huế rồi. May sao còn chút gì đó… Cô Tịnh Thy đã có bài rất hay, vừa là điểm phim đầy đặn, vừa là nhận định phim với tình cảm chan chứa sâu sắc.

    Nhờ cô Tịnh Thy, năm mươi phần trăm thưởng thức phim của tôi là nhờ bài của cô trên facebook.

    Facebook, 04/12/2025

    ***

    Mời đọc thêm lời bình phim của thầy Ngô Thế Phiệt:

    Tôi đi xem phim “Kỳ Nam quán”

    —-

    Thế rồi chúng tôi cũng xem Kỳ Nam Quán. Chỉ đi bộ có 10 phút mà được chiêm ngưỡng 2 vẻ đẹp. Nếu vẻ đẹp của Kỳ Nam được chắt ra từ đau thương đổ vỡ: chồng mất trong trại cải tạo, con trai chết trên đường vượt biển, cảnh khốn khó của người thua cuộc, thì vẻ đẹp của cô đóng vai chủ quán (Hải Yến) tôi nghĩ là của Trời ban không chắt ra từ đâu cả. Quán không phải là quán chỉ là một căn phòng chật hẹp với cái bàn chất đầy thức ăn và hàng chục cái cặp lồng đợi Su, cậu-bé-con-lai-đang-chờ-xuất-cảnh (tên Su có thể hiểu cứt su của trẻ sơ sinh cũng có thể là bắp cải (chou, tiếng Pháp) hay cục cưng tuỳ ngữ cảnh). Không gian là một mớ hỗn độn: chen lẫn hận thù, độc ác với lòng tốt nhân ái của cư dân Sài Gòn, tình-yêu-nhẹ-nhàng-sương-khói giữa người quả phụ lớn tuổi và người thanh niên trẻ chen lẫn với các tác phẩm nổi tiếng của văn học Pháp: Hoàng Tử Bé, Người đàn bà ngoại tình… Âm thanh là hợp tấu của tiếng hát Hà Thanh với tiếng rao của người thu mua phế liệu, tiếng mỉa mai dè bỉu của những người xấu tính, ganh ghét, tiếng của 2 người thầm yêu nhau bàn về tác phẩm Le Petit Prince của Saint Exupery, tiếng cộc cộc của chiếc máy đánh chữ cổ. Ánh sáng thì tăm tối lúc sáng, lúc tối theo lịch cúp điện thời bao cấp. Vượt lên tất cả là tình yêu: Vượt lên nghịch cảnh, tuổi tác, thế hệ, thời đại, hận thù… Chỉ có tình yêu mới chữa lành mọi tổn thương để có được cái quý nhất: Kỳ Nam. Kể từ “Mùa len trâu” tôi mới xem được một phim hay.

    PS: Xem phim làm tôi nhớ đến một người, cô nữ sinh Đồng Khánh có ngôi nhà sàn trên 1 cái cống ở 1 con kiệt ngày ngày sau giờ học đem cà mèn cơm cho chúng tôi thời còn đi học ở ĐH Huế. Ngôi nhà và bà mẹ già tật nguyền ngồi nấu cơm tháng cho SV. Đời thực chẳng khác gì trên phim.

    Ngô Thế Phiệt

  • THÁNH NICHOLAS: MỘT TRUYỀN THỐNG XỨ BỈ XA XƯA HƠN ÔNG GIÀ NOEL

    Thái Lan (Phan Nữ Lan) sưu tầm & dich

    Một lễ hội thấm sâu vào văn hóa Bỉ t xưa
    Từ rất lâu trước khi Ông già Noel trở thành biểu tượng của mùa lễ hội cuối năm, Thánh Nicholas đã chiếm lĩnh thế giới tưởng tượng của trẻ em Bỉ. Hàng năm, vào ngày 6 tháng 12, những đứa trẻ ngoan ngoãn sẽ được nhận kẹo bánh và quà, trong khi những đứa trẻ không ngoan sẽ phải đối đầu với Père Fouettard (Ông Roi Vọt) đáng sợ.
    Lễ hội này, vẫn được tổ chức khắp nơi cho đến ngày nay, là thời điểm của niềm vui và sự sẻ chia, đánh dấu sự khởi đầu của các lễ hội mùa đông ở Bỉ.

     Nguồn gốc của Thánh Nicholas
    Câu chuyện về Thánh Nicholas bắt nguồn từ thế kỷ thứ 4 ở Tiểu Á (ngày nay là Thổ Nhĩ Kỳ), nơi Nicholas de Myra làm giám mục. Nổi tiếng với lòng hào hiệp vô bờ bến, nhân vật lịch sử này đã tạo nên nhiều truyền thuyết, đáng chú ý nhất là câu chuyện ngài cứu ba đứa trẻ khỏi một tên đồ tể độc ác.*1/-

    Thánh Nicholas nhanh chóng trở thành người bảo vệ trẻ em và học sinh ở châu Âu, khởi nguồn cho truyền thống ngày 6 tháng 12, ngày ngài đến để ban thưởng cho những đứa trẻ ngoan ngoãn.

    Theo dòng thời gian, truyền thống này đã bén rễ ở Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và miền Đông nước Pháp, rất lâu trước khi Ông già Noel xuất hiện, Ông được Thánh Nicholas truyền cảm hứng với vẻ bề ngoài và lòng hào phóng của ngài.

    Lễ mừng Thánh Nicholas được tổ chức như thế nào ở Bỉ?
    Vào tối ngày 5 tháng 12, trẻ em đặt giày của mình bên lò sưởi hoặc trước cửa ra vào, cùng với một củ cà rốt và một miếng đường cho con lừa của Thánh Nicholas. Sáng hôm sau, chúng khám phá ra những điều bất ngờ mà vị thánh vĩ đại để lại:

     -Quà tặng cho những bé may mắn.-Bánh quy Speculoos hình Thánh Nicholas.
    -Bánh hạnh nhân và quýt, biểu tượng của sự ngọt ngào và thịnh vượng.

    Ở một số trường học và làng mạc, Thánh Nicholas thậm chí còn đích thân đến thăm trẻ em, thường đi cùng với người bạn đồng hành của mình, Père Fouettard (Ông Roi Vọt), – người luôn ở đó để nhắc nhở những đứa trẻ hư hỏng rằng chúng phải cư xử thật tốt.

    Speculoos

    Thánh Nicholas và Ông Già Noel: Khác nhau như thế nào?

    Mặc dù Thánh Nicholas và Ông già Noel có nhiều điểm tương đồng nhưng có một số điểm khác biệt sau:   

    Thánh Nicholas                                                                            Ông già Noel  
    1/- Nguồn gốc

    – Thế kỷ thứ 4,  Giám mục De Mare  
      -Lấy cảm hứng từ Thánh Nicholas, được phổ biến vào thế kỷ XIX  
    2/- Ngày  Lễ hội

    – 6 tháng 12         
        -25 tháng 12  
     3/-Phương tiện di chuyển

    – Chú lừa     
      –  Xe trượt tuyết do tuần lộc kéo
      4/-Người bạn đồng hành

     – Ông Roi Vọt      
        – Tiểu quỷ phương Bắc
    5/-Loại phần thưởng

    Kẹo bánh và quà nhỏ    
      -Đồ chơi và quà tặng dưới gốc cây thông Noel

    Ở Bỉ, trẻ em chủ yếu nhận quà vào lễ Thánh Nicholas, còn lễ Giáng Sinh là dành riêng cho lễ hội với cả gia đình Những món ăn không thể thiếu trong Ngày Thánh Nicholas
    Ngày Thánh Nicholas cũng là dịp để thưởng thức các món ngọt truyền thống.

    Spectuloos: Bánh quy giòn theo kiểu Thánh Nicholas có tẩm gia vị, thường được tạo theo hình ảnh vị thánh vĩ đại.
    Marzipan: Bột hạnh nhân ngọt có hình dạng động vật nhỏ hoặc trái cây.

    Sô cô la và tượng nhỏ (con giống) bằng sô cô la: Thường có hình Thánh Nicholas.
    Quả quýt: Một món quà theo truyền thống xa xưa cho trẻ em, gợi nhớ đến quả cam, từng rất hiếm và quý giá vào mùa đông.

     Ngoại hình cũng khác nhau;  sau này chiếc áo choàng đỏ và bộ râu dài mới xuất hiện, trong khi phiên bản Thánh Nicholas của Pháp vẫn mặc áo giám mục, thường có màu tím, m vàng hoặc trắng, và bộ râu khá ngắn.Khi những người  kiều dân   Hà Lan đến Mỹ vào thế kỷ 17, họ đã mang theo truyền thống này. Cái tên “Sinterklaas” trở thành “Santa Claus”, và văn học Mỹ thế kỷ 19 đã thêm vào hình ảnh tuần lộc, xe trượt tuyết và ống khói. Hình minh họa của Thomas Nast và sau đó là các quảng cáo của Coca-Cola đã định hình nên diện mạo hiện đại của ông.

    Ngày Thánh Nicholas, một truyền thống nên lưu truyền

    Ngày Thánh Nicholas không chỉ là một ngày lễ; đó là thời điểm các thế hệ trong gia đình sum họp, chia sẻ những kỷ niệm tuổi thơ, những món ăn ngon và những câu chuyện huyền thoại. Một cơ hội tuyệt vời để khám phá hoặc tìm lại một truyền thống đã ăn sâu vào văn hóa Bỉ!

    nguồn:

    https://shop.labelleetlebelge.com/blogs/infos/saint-nicolas-une-tradition-belge-plus-ancienne-que-le-pere-noel

      CHÚ THÍCH

    *1/-

    Truyền thuyết về Thánh Nicholas được Gérard de Nerval thu thập tại tỉnh Valois vào năm 1842.
    Truyền thuyết này kể về việc Thánh Nicholas nhân từ, giám mục thành Myra, đã hồi sinh ba đứa trẻ vô tội bị một người bán thịt tham lam sát hại và cách ông trở thành vị thánh bảo trợ của trẻ em.
    Những dấu vết đầu tiên của truyền thuyết về ba đứa trẻ vô tội trong thùng muối có từ thế kỷ 12.

    Truyền thuyết kể rằng có ba đứa trẻ đi mót lúa ngoài đồng, bị lạc đường khi trở về.

    Nhìn thấy ánh sáng ở một ngôi nhà, chúng đến và gõ cửa.

    Một người bán thịt đã mở cửa và giả vờ đồng ý cho chúng ở lại qua đêm. Thực ra, ngay khi bọn trẻ bước vào, ông ta đã giết chúng, sau đó dùng con dao lớn của mình cắt chúng thành từng miếng nhỏ, ri bỏ chúng vào một thùng lớn chứa đầy muối để làm thịt muối! 

     Mt thi gian sau, Thánh Nicholas cưỡi lừa, tình cờ đi ngang qua và gõ cửa nhà hàng thịt. Ngài muốn có thịt muối cho bữa ăn tối – Ngài đã lừa người bán thịt, và ông này nhận ra mình đã bị phát hiện. Thánh Nicholas giơ ba ngón tay lên trên thùng thịt muối và làm ba đứa trẻ sống lại, chúng thức dậy sau giấc ngủ dài.

    Thánh Nicholas làm cho ba đứa trẻ sống lại từ cõi chết. Minh họa từ Sách Giờ Kinh của Jacques de Langeac (bản thảo số 5154 tại Thư viện Thành phố Lyon, 1465-1468)

  • Cô gái nào trong “EM ĐẾN THĂM ANH MỘT CHIỀU MƯA” — TÔ VŨ?

    Niệm Quân – Nhacxua.net

    Hoàn cảnh sáng tác “Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa” (nhạc sĩ Tô Vũ) – Tuyệt phẩm trữ tình lãng mạn của thập niên 1940

    “Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa” là một nhạc phẩm trữ tình nổi tiếng của nhạc sĩ Tô Vũ được sáng tác từ năm 1947, được đánh giá là một trong những tuyệt phẩm của Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đầu.

    Bạch Yến hát:

    Nhạc sĩ Tô Vũ (tên thật Hoàng Phú, sinh ngày 9 tháng 4 năm 1923 tại phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang nhưng từ khi còn nhỏ ông đã chuyển về sống tại Hải Phòng cùng bốn người anh em ruột của mình.

    Nhạc sĩ Tô Vũ sáng tác không nhiều, nhưng ông đã có đóng góp đáng kể cho sự phát triển của âm nhạc Việt. Ngay từ thập niên 1940, nhạc sĩ Tô Vũ cùng với anh trai là nhạc sĩ Hoàng Quý đã phôi thai thành lập nên nhóm “Đồng Vọng” để cùng sinh hoạt văn nghệ và sáng tác nhạc. Nhóm lôi kéo được sự đóng góp và tham gia của nhiều nhạc sĩ tên tuổi như Canh Thân, Phạm Ngữ, Văn Cao,… Nhóm đã sáng tác được khoảng 60 ca khúc hùng ca, sử ca, và Hướng đạo ca.

    Bên cạnh thể loại nhạc hùng ca, vui tươi, khoẻ khoắn, nhóm còn cho ra đời loại “nhạc tâm tình”, tức những bài nhạc tình, nhạc lãng mạn. Tuy nhiên, nhưng bản nhạc tình này không được in vào trong những tập nhạc “Đồng Vọng” của nhóm mà chỉ phổ biến hạn hẹp, truyền tay nhau trong các nhóm bạn bè tri kỷ. Tô Vũ là tác giả của các ca khúc nổi tiếng: Em đến thăm anh một chiều mưa, Tạ từ, Tiếng chuông chiều thu, … Bên cạnh công việc sáng tác, Tô Vũ còn là một giáo sư, nhà nghiên cứu và giảng dạy âm nhạc. Ông giữ vai trò quan trọng trong việc tham gia xây dựng và phát triển các trường, viện âm nhạc tại Việt Nam, đào tạo ra nhiều thế hệ nhạc sĩ, ca sĩ sau này.

    Chia sẻ về hoàn cảnh ra đời của ca khúc Em Đến Thăm Anh Một Chiều Mưa, trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 11 năm 2002, nhạc sĩ Tô Vũ từng chia sẻ rằng đó là một câu chuyện có thật của chính ông. Câu chuyện được nhạc sĩ kể lại rất dễ thương như sau:

    “Bản nhạc được tôi viết năm 1947, khi đơn vị tuyên truyền huyện Kiến An chúng tôi tiếp nhận 3 nữ cứu thương của huyện Tiên Lãng đi phục vụ chiến đấu bị lạc đường. Tôi và 2 người bạn ở trong một ngôi đình. Khi chúng tôi tập hát thì các cô này rủ nhau tới xem. Thoạt đầu họ còn e dè nhưng sau đó cũng nhận lời tập múa hát chung với chúng tôi. Trong đó, một cô hát rất hay và vững nhịp nên thường song ca với tôi. Mỗi lần đi biểu diễn, tiết mục của chúng tôi được hoan hô nhiều nhất. Nhưng chỉ khoảng 2 tháng sau thì ba cô gái này phải trở về đơn vị cũ, cách chỗ tôi khoảng 8 km. Khi chia tay, chúng tôi ước hẹn sẽ sang thăm nhau vào chủ nhật mỗi tuần. Nếu họ không qua thì ba đứa tôi sang, nếu cả hai bên cùng sang thì sẽ gặp nhau ở giữa đường, bởi là đường độc đạo và phải qua một bến sông. Hôm ấy trời mưa, chúng tôi không thể sang bên kia thăm được. Buổi chiều trời vẫn mưa. Tôi đang “trụ trì” ngôi đình (hai ông bạn kia đã đi chơi) thì đột nhiên “em” một mình đội mưa đến. Xúc động đến bồi hồi, tôi đã viết:

    Em đến thăm anh một chiều đông
    Em đến thăm anh một chiều mưa
    Mưa dầm dề, đường trơn ướt tiêu điều
    Em đến thăm anh, người em gái…

    Ở chữ “gái”, tôi chọn nốt “si bémol” (si giáng) lửng lơ mà khi hát lên, nghe rất… nũng nịu, không chút gì giống với “người em gái” bình thường cả. Tuy nhiên, theo thời gian tôi không tài nào nhớ nổi người nào trong số 3 cô gái đã “hiện ra” trong buổi chiều mưa năm ấy. Sau này, tôi cũng đã lần lượt gặp lại từng “cố nhân”. Có người nhận “là em đấy!” nhưng tôi không tin. Có người lại chối phắt, người còn lại thì không tiện hỏi… đành phải tan giấc mơ hoa:

    Ta ước mơ một chiều thêu nắng
    Em đến chơi quên niềm cay đắng và quên… đường về!”

    Em đến thăm anh một chiều đông
    Em đến thăm anh một chiều mưa
    Mưa dầm dề, đường trơn ướt tiêu điều

    Em đến thăm anh,
    Người em gái tà áo hương nồng,
    Mắt huyền trìu mến sưởi ấm lòng anh

    Em đến thăm anh chiều đông giá
    Em đến thăm anh trời mưa gió
    Đường xa lạnh lùng
    Mặt nhìn mặt, cầm tay bâng khuâng không nói một câu
    Lời nghẹn ngào, hồn anh như say như ngây, vì đâu? 


    Cuộc gặp gỡ của đôi trai gái diễn ra trong một hoàn cảnh đầy chất xúc tác. Giữa chiều đông lạnh, “mưa dầm dề, đường trơn ướt tiêu điều”, chàng nhạc sĩ trẻ hẳn là đang một mình thẩn thơ với nỗi buồn vắng hoang lạnh xung quanh, thì cô gái bất ngờ xuất hiện, một mình, đội mưa tìm đến: “tà áo hương nồng, mắt huyền trìu mến sưởi ấm lòng anh”. Hẳn là chàng trai đã vô cùng xúc động trước tấm chân tình của cô em gái mà chàng đã thầm để ý.

    Trong nguồn cảm xúc dâng trào, họ nắm tay nhau, nhìn nhau đầy thấu hiểu nhưng “không nói một câu” bởi mọi ngôn từ đều tắc tịt, “nghẹn ngào” và bởi trái tim loạn nhịp đã chiếm giữ lý trí khiến “hồn anh như say như ngây”. Cả đoạn hát, nhạc sĩ sử dụng những ca từ nhẹ nhàng, giản dị nhưng giai điệu thì đắm đuối, da diết lột tả trọn vẹn cõi lòng của đôi trai gái “tình trong như đã mặt ngoài con e”.

    Gió đưa cánh chim trời
    Đó đây cách xa vời
    Chiều vui mưa lạc cánh 

    Khá thương kiếp bềnh bồng
    Dẫu khắng khít đôi lòng
    Chiều nào em xa anh?

    Tuy nhiên, niềm vui gặp gỡ nhanh chóng bị xâm lấn bởi những cảm xúc âu lo, ái ngại. Bởi trong hoàn cảnh tao loạn, cả chàng trai và cô gái đều chẳng thể biết được ngày mai còn có thể gặp lại hay không, chẳng biết rồi cuộc đời, công việc, những nhiệm vụ sẽ đưa đẩy họ đi đâu về đâu. “Dẫu khăng khít đôi lòng”, chàng trai vẫn không khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến tương lai: “Chiều nào em xa anh?”

    Có hay lúc em về
    Gót chân bước reo âm thầm
    Trên đường một mình ngoài mưa 

    Hình ảnh cô gái với đôi chân reo vui trở về một mình giữa cơn mưa sau khi từ biệt chàng trai được nhạc sĩ phác hoạ thật đẹp. Nhưng đối lập với hình ảnh đáng yêu đó là nỗi buồn dầm dề như cơn mưa rả rích phủ xuống tâm hồn người đứng trông theo:

    Mưa như mưa trong lòng anh
    Lòng bồi hồi nhìn theo chân em chìm trong ngàn xanh
     

    Và chàng trai ước rằng:

    Ta ước mơ một chiều thêu nắng
    Em đến chơi quên niềm cay đắng
    …và quên… đường về

    Giá như chẳng có cơn mưa kia, giá như chẳng có những cay đắng, rào cản, giá như cô gái không phải trở về, giá như cô quên mất… đường về…

    Ca khúc khép lại bằng những lời ca bềnh bồng mang theo niềm ước ao khôn nguôi của chàng trai trẻ. Cuộc gặp gỡ chóng vánh để lại bao cảm xúc, quyến luyến đã nhanh chóng kết thúc bằng một cuộc chia ly vội vã không kém, để lại bao tiếc nuối, nhớ nhung cho chàng nhạc sĩ trẻ.

    Nhạc sĩ Tô Vũ đã qua đời vào 3g30 phút sáng 13-5- 2015 tại Sài Gòn.

     Bài: Niệm Quân

    Bản quyền bài viết của nhacxua.vn